Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình chiểu

Thứ hai , 01/12/2014, 14:57 GMT+7
     

Năm 1859, để gỡ thế bí phải giam chân lâu ngày ở Đà Năng, thực dân Pháp rút quân đánh vào Sài Gòn. Dựa vào sức mạnh của đội quân nhà nghề trang bị tối tân lại lợi dụng tình thế bất ngờ, chúng tấn công ào ạt. Quân dân ta chống cự mãnh liệt nhưng tất cả những sự do dự cầu an vô trách nhiệm của triều đình Huế trong vai trò lãnh đạo của mình đã gây ra rất nhiều trở ngại. Dần dần ta phải rút ra khỏi Sài Gòn để củng cố đồn Kỳ Hòa.

Thực dân Pháp lại tiến đánh Kỳ Hòa và ngày 14 - 12 - 1861 (tháng 11 năm Tân Dậu) chúng đánh úp ba xứ Cần Giuộc, Tân An, Gò Công. Hai hôm sau nhân đêm rằm, nghĩa quân của ba xứ nổi dậy đột kích quân Pháp đóng ở Cần Giuộc, nghĩa binh phá đồn giặc, đốt nhà lao, giết chết tên quan hai Pháp và một số lính, mã tà người Mã Lai và Phi Luật Tân, nghĩa binh hi sinh khoảng mười tám người.

Sau thắng lợi này, tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, bạn của Nguyễn Đình Chiểu có nhờ ông làm bài văn tế những nghĩa binh tử trận. Cuộc điếu tế làm ở Cần Giuộc với bài văn có tên là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nghĩa binh phần lớn là nông dân ở các đồn điền do nhà Nguyễn lập ra để khai thác sáu tỉnh Nam Bộ. Vì thế người ta thường gọi là “dân mộ nghĩa” hoặc  “dân đồn điền” để phân biệt với quân chính quy của triều đình. Và bài văn tế còn có tên là Văn tế vong hồn dân mộ nghĩa.

Bài văn thuộc giai đoạn thứ hai cuộc đời sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu nhưng xét trong bộ phận văn thơ yêu nước của tác giả thì đây là một trong những sáng tác đầu tiên, đồng thời có giá trị mở đầu cho cả dòng văn học yêu nước chống Pháp băng chữ Nôm nửa sau thế kỉ XIX.

Tình hình chung thời kì này, trong khi nhân dân Nam Bộ tiếp tục vùng lên chống xâm lược thì quân đội của triều đình bị thua nhiều trận, rút lui dần. Vua chúa nhà Nguyễn tuy chưa đầu hàng nhưng càng bạc nhược, lúng túng.

Xuất phát từ lòng yêu nước thương, dân tha thiết, Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ nỗi tiếc thương vô hạn đối với những nghĩa sĩ nông dân đã bỏ mình vì nước, đề cao tấm gương hi sinh chiến đấu anh dũng của họ để động viên lòng yêu nước căm thù giặc, ý chí kiên quyết chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta thời đó.

Toàn bài có 30 câu làm theo lối Đường phú độc vận với kết cấu thông thường của văn tế, gồm bốn phần:

1) Lung khởi (câu 1 - 2). Nêu rõ chủ đề: Sự hi sinh vẻ vang của những người nông dân vì đại nghĩa mà chống giặc.

2) Thích thực (câu 3 - 15). Giới thiệu những người nông dân mộ nghĩa với cuộc đời lao động nghèo khổ, tinh thần anh dũng cứu nước và thành tích giết giặc của họ.

3) Ai vãn (câu 16 - 28). Bày tỏ lòng tiếc thương của tác giả và của nhân dân đối với liệt sĩ.

4) Kết (câu 29 - 30). Ca ngợi linh hồn bất diệt của các liệt sĩ.

Phân tích chi tiết bài văn:

1. Lung khởi:

Bài văn mở đầu bằng hai câu tứ tự (bốn từ):

Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ.

Với hình thức ngắn gọn, câu văn mang một nội dung hàm súc vì đã dựng nên được khung cảnh bão táp của thời đại, khái quát đầy đủ hai mặt của biến cố chính trị lớn lao: một bên là cuộc xâm lăng ào ạt, tàn bạo của kẻ thù với vũ khí tối tân (tiêu biểu là thứ súng nạp hậu, tiếng nổ và sức công phá dữ dội hơn hẳn thứ súng cổ lỗ của phong kiến); một bên là vai trò và ý chí chống xâm lăng của nhân dân khi bình thời vốn tiềm ẩn thầm lặng nay bỗng hiện lên sáng ngời rực rờ. Hai mặt đó trong thực tế lịch sử đã xung đột mãnh liệt, chi phối toàn bộ thời cuộc cho nên không phải là ngẫu nhiên mà tác giả đã dùng những yếu tố không gian rộng lớn “đất”, “trời”, kèm theo hai động từ “rền”, “tỏ” làm thành một hình ảnh thống nhất nhưng lại mang mâu thuẫn nội tại gay gắt, nêu bật được tính chất nghiêm trọng và quyết liệt của tình thế. Bằng cách đối chọi “súng giặc” với “lòng dân” tác giả đồng thời biểu hiện một quan điểm nhìn nhận thời cuộc khá sâu sắc và tiến bộ.

Tiếp theo, tác giả giới thiệu khái quát về người nông dân trong sản xuất và trong chiến dấu.

“Mười năm công vỡ ruộng chưa át còn, danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất, tiếng vang như mõ”

Bằng hình ảnh này, tác giả đồng thời nói lên chủ đề của bài văn: Người nghĩa sĩ nông dân tuy đã hi sinh nhưng danh tiếng còn vang dội.

Đặt vào hoàn cảnh lúc đó, khi Đại đồn đã thất thủ và quân tướng triều đình đang hoang mang, dao động trước những tổn thất, thương vong thì việc ca ngợi cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ phải coi là một thái độ cứng cỏi, có tính chiến đấu mạnh mẽ.

Mặt khác, mối quan hệ tương phản giữa hai vế, nhất là sự tương phản giữa “mười năm công vỡ ruộng” và “một trận nghĩa đánh Tây” đã phản ánh chân thực sự chuyển biến đột xuất, sức vùng lên mau lẹ của những người nông dân yêu nước giống như cái vươn vai thần kì của Thánh Gióng. “Người chiến sĩ của nghĩa quân vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước” (Phạm Văn Đồng)

Hai câu lung khởi ngắn gọn đã làm đủ chức năng của nó: một mặt khái quát được bối cảnh lịch sử với hình tượng trung tâm của thời đại, một mặt nêu rõ chủ đề tư tưởng, đó là thái độ ca ngợi cái chết vẻ vang, tinh thần bất diệt của những người nông dân yêu nước đã hi sinh trong trận Cần Giuộc.

2. Thích thực:

Trong phần này, bằng một bút pháp cụ thể và sinh động Nguyễn Đình Chiểu tập trung mô tả hình tượng người nghĩa quân trong cả một quá trình đi từ cuộc đời lao động âm thầm cực khổ đến cuộc đời chiến đấu anh dũng vẻ vang.

Mở đầu đoạn văn cũng lại là hai câu tứ tự:

Nhớ linh xưa:

Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó.

Hai vế sóng đôi chính là hai nét hiện thực căn bản theo nhau như bóng với hình trong cuộc sống của người nông dân xưa kia: làm ăn vất vả quanh năm mà nghèo khó lo toan suốt đời.

Chỉ dùng tám chữ nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã chứa đựng trong đó bao nhiêu kiếp sống nặng nề và cả tấm lòng bùi ngùi mến thương vô hạn. Hoài Thanh có lời bình: “Biết bao nhiêu yêu thương trong một chữ côi cút”.

Chuyển đến những câu sau (câu 4 - 9), không dùng cách khái quát cô đọng như trên mà bằng những chi tiết cụ thể, mộc mạc nhưng rất chọn lọc, tiêu biểu, tác giả đã giới thiệu quá trình người nông dân tự giác đứng lên vì nghĩa lớn.

Người hông dân nghèo khổ vốn rất xa lạ với việc binh đao, một sự xa lạ bắt nguồn từ nề nếp sinh hoạt và lao động:

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung

Chỉ biết ruộng trâu, ở theo làng bộ

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm 

Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Có thể thấy trong cách diễn tả ở đây, tác giả đã dùng nhiều thủ pháp kết hợp: những chi tiết chân thực, cách dối ý chặt chẽ giữa hai vế trong câu văn biền ngẫu và đặc biệt là một số từ hình thái tương phản mạnh mẽ như “chưa quen” đối với “chỉ biết”, “vốn quen” đôi với “chưa quen” đã biểu hiện sâu sắc bản chất hòa bình của cuộc sống lao động, của người nông dân lao động.

Do đó khi xảy ra chiến sự, họ đã trải qua một tâm trạng lo âu, hồi hộp kéo dài.

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười thảng.

 (Chữ phập phồng dùng khá chính xác vì đây không phải là tâm lí khiếp sợ). Là người dân dưới chế độ phong kiến, họ buộc phải trông chờ ở quan trường triều đình, bồn chồn như mong mỏi một vị phúc tinh “Trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Dĩ nhiên không thể coi đó là một thái độ tiêu cực trước nguy cơ của đất nước vì thời này trách nhiệm lãnh đạo toàn dân vẫn thuộc về sứ mệnh của giai cấp phong kiến thống trị. Nhưng thực tế lịch sử ngày càng chứng tỏ vai trò bất lực, ươn hèn và thái độ vô trách nhiệm của giai cấp phong kiến đương thời mà tiêu biểu là triều đình nhà Nguyễn đối với vận mệnh của nhân dân, đất nước.

Chúng ta còn nhớ, ngay sau tiếng súng đầu tiên của bọn Pháp xâm lược trên đất Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu đã từng phải thốt lên:

Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng .

Nỡ để dân đen mắc nạn này!

Chạy giặc

Cho nên không thể nào khác là người nông dân Cần Giuộc phải uổng công trông đợi và trạng thái thất vọng sẽ là một tiền đề tâm lí cho sự vùng dậy sau này.

Trong khi đó, ách ngoại xâm cùng với biết bao hành động tội ác của nó ngày càng đè nặng lên cuộc sống như một thứ “Mùi tinh chiên”, như “thói mọi”. Chất chứa bao nhiêu căm ghét trong lòng người dân lương thiện:

Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỗ.

Ở đây cũng như ở vế trên của câu văn, có thể lưu ý đến thủ pháp so sánh giàu tính dân gian của Nguyễn Đình Chiểu để diễn tả cụ thể và sâu sắc những nét tâm lí vốn trừu tượng như “trông đợi”, “căm ghét”. Đồng thời kết hợp với yếu tố thời gian như “Hơn mười tháng”, “đã ba năm” câu văn còn biểu hiện được cả sự vận động tịnh tiến chân thực của tình cảm.

Chính vì thế, đến câu tiếp theo, sự căm ghét đã được nâng lên thành một thái độ căm thù mãnh liệt sẵn sàng bùng nổ ra bằng hành động.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xỉ, muốn ra cắn cổ.

Người nông dân vốn hiền lành trầm tĩnh đến đây đã có một bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng: không thể thụ dộng trông đợi triều đình mà phải kiên quyết tự mình đứng lên giết giặc cứu nước.

Diễn tả được rạch ròi, tự nhiên và chân thực sự đột biến đó phải kể là một thành công nữa trong nghệ thuật của tác giả. Quả thật không phải ngẫu nhiên mà những chi tiết miêu tả sự hoành hành ngang nhiên khiêu khích của quân thù đã được dùng với những màu sắc kích động “trắng lốp”, “đen xì” để đủ sức tạo nên những phản ứng tâm lí tự nhiên và quyết liệt “muốn tài ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Và cả câu văn là một chỉnh thể cân đối giữa các ý vừa biểu hiện, vừa lí giải được một trạng thái căm thù cháy bỏng, dữ dội một cách chính đáng và chân thực.

Có thể so sánh với cách biểu hiện căm thù của một vài cây bút đương thời để rõ thêm đặc sắc của phong cách Nguyễn Đình Chiểu:

Hoàng giáp Lê Khắc cẩn viết:

Mí mắt rách toang, tóc đầu chỉ ngược 

Thề lột da giặc để làm áo nằm,

Thề ăn thịt giặc thay cơm nước

Bảng nhãn Phạm Thanh tả:

Giặc kia, mắt ta chẳng thèm trông, khi giận đùng đùng xông lên mủ đội.

Ở đây lối viết cầu kì kiểu cách đã hạn chế rất nhiều chất sinh động và chân thực của hình ảnh.

Trở lại với Nguyễn Đình Chiểu, có thể nói chỉ bằng hai câu 6 và 7, tác giả đã diễn tả một cách sâu sắc, thỏa đáng sự phát triển tất yếu của tính cách trong mối liên hệ tự nhiên và chặt chẽ với hoàn cảnh thông qua một hình thức nghệ thuật giản dị, cụ thể đậm đà tính cách dân gian.

Câu sau tiếp tục nâng cao ý chí căm thù trong sự gắn bó sâu sắc với ý thức công dân về trách nhiệm bảo vệ giang sơn thống nhất của Tổ quốc:

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu: Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.

Đây là ý nghĩa cao quý về đại nghĩa nên tác giả đã dùng những hình ảnh kì vĩ “xa thư đồ sộ”, “nhật nguyệt chói lòa” lại thêm những hư từ “há để”, “đâu dung” làm cho câu văn đượm vẻ trang trọng như một lời tuyên ngôn chính trị.

So với các giai đoạn văn học trước trong đó con người mới tự ý thức về cá nhân mình, ở đây con người tự ý thức về nghĩa vụ trực tiếp đối với đất nước, dân tộc như vậy, phải xem là một bước phát triển. Và càng có giá trị hơn nữa khi sự xuất hiện đầu tiên lại ở trong hình tượng người nông dân đánh giặc.

Rò ràng theo quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu, người nông dân Cần Giuộc đứng lên giết giặc cứu người với dầy đủ sự giác ngộ cần thiết mà thời đại cho phép. Quan niệm này được lịch sử hoàn toàn xác nhận giá trị chân thực qua việc nghĩa dân Gò Công - cũng dòng máu nông dân ấy - đã “chẳng nghe thiên tử chiếu đón ngăn mấy dặm mã tiền” trên đường đi nhậm chức của tướng quân Trương Định. Và sẽ càng thấy cách suy xét của nhiều tên Pháp xâm lược hồi đó cho rằng.nghĩa quân “can đảm một cách mù quáng” là hồ đồ, ngu ngốc biết bao!

Xuất phát từ sự giác ngộ nói trên, tư thế của con người bước vào chiến đấu là một tư thế hiến ngang, hăm hở đầy tự tin:

Nào đợi ai đòi, ai bát, phen này xin ra sức đoạn kình: chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Điều đáng chú ý ở đây là thái độ của người nông dân đối với chiến tranh đã hoàn toàn thay đổi. Nếu như trước kia, trong chiến tranh của vua chúa họ đã tìm mọi cách lẩn trốn, có người thay cả họ tên, bỏ cả quê quán thì giờ đây họ lại hăng hái tham gia chiến đấu. Tình hình đó có nguyên nhân khách quan là tính chất cuộc chiến tranh đã khác trước nhưng xét về mặt chủ quan, rõ ràng họ có ý thức phân biệt chiến tranh phi nghĩa và chiến tranh chính nghĩa. Chán ghét chiến tranh phi nghĩa bao nhiêu họ lại tự giác xông vào chiến tranh chính nghĩa bấy nhiêu. Hơn thế, ở đây họ đã tự động tiến hành chiến tranh chính nghĩa để chống chọi với bạo lực phi nghĩa của kẻ thù.

Câu văn giản dị đã bao hàm một chân lí lớn chẳng những có giá trị đối với đương thời mà cho đến nay vẫn còn giàu ý nghĩa vì vẫn chưa hết những quan niệm mơ hồ về chiến tranh và hòa bình. Lịch sử hàng nghìn năm đã chứng tỏ, ở thời đại nào cũng vậy, bọn hiếu chiến khát máu không ngoài nhũng giai cấp bóc lột. Còn quần chúng lao động chỉ cầm vũ khí trong trường hợp vạn bất đắc dĩ, nói như Nguyễn Đình Thi là:

Đạp quân thù xuống đất đen,

Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.

Người nông dân ở đây cũng vậy. Có điều khi họ đã nổi giận đứng lên thì kẻ thù không tránh khỏi những cơn sấm sét.

Vốn suốt đời nghèo khổ nên họ cũng xuất hiện ở chiến trường với đủ thứ thiếu thốn dường như đó là một cái duyên nợ truyền kiếp.

Chiếu rèn luyện võ nghệ, binh thư: Mười tám ban võ nghệ nào đợi tập rèn: chín chục trận binh thư không chờ bày bố.

Chiếu tập tành tối thiểu về cơ ngữ:

Vốn chẳng phải quân ca, quân vệ theo vòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quăn chiêu mộ.

Thiếu mọi thứ trang bị như “bao tấu bầu ngòi”, “Dao tu, nón gõ” đến đỗi chống với đạn lạc tên rơi mà “ngoài cật có một manh áo vải”.

Có thể nói họ bước vào chiến đấu với cả cuộc đời nghèo khổ trên lưng làm cho chúng ta khi đọc lại mấy câu văn mô tả của Nguyễn Đình Chiểu không khỏi ngậm ngùi thương cảm.

Hình ảnh của họ dường như chưa phải là hình ảnh người chiến binh hoặc như ta thường nói “người nông dân mặc áo lính” mà vẫn là bóng dáng quen thuộc của họ trong gia đình, ngoài đồng ruộng với những dụng cụ thô sơ sẵn có: “một ngọn tầm vông”, “một lưỡi dao phay”, “một nắm  rơm con cúi”.

Đọc kĩ đoạn văn, có thể khẳng định rằng tác giả nêu lên tình cảnh kê trên không phải với thái độ tủi cực tự ti mà chính là với một niềm tự hào sâu sắc phản ánh đúng tinh thần hăng hái bất chấp khó khăn thiếu thốn của nghĩa quân trong chiến đấu. Cách đối chọi chan chát các ý trong câu văn, cứ mỗi khó khăn là kèm theo những từ phủ định mạnh mẽ như “nào đợi”, “không chờ”, “chi nài”...

Vượt qua mọi gian nguy, với tinh thần “mến nghĩa”, với khí thế hăng hái, tự hào, người nông dân Cần Giuộc đã xông lên mạnh như vũ bão “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xống vào”, hiên ngang tung hoành, hò reo náo động:

Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm cho mã tà ma ní  hồn kinh: bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.

Ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu đến đây như bay nhảy lên vô cùng sảng khoái với hàng loạt động từ tràn đầy sinh lực và dũng khí: “đạp, lướt, xô, xông, đâm, chém, hè, ó” tiếp nối nhau theo một nhịp điệu, dồn dập sôi nổi.

Tất nhiên trong một cuộc giao chiến quá chênh lệch về nhiều phương diện, nghĩa quân không tránh khỏi tổn thất hi sinh nhưng họ đã nêu tấm gương anh dũng tuyệt vời và đã viết nên những trang sử chống Pháp đầu tiên của dân tộc bằng ý thức tự giác và bằng máu thắm của mình.

Ý nghĩa quan trọng của trận đánh không những ở chỗ họ đã lập được chiến công oanh liệt như tác giả mô tả chân thực “đốt xong nhà dạy đạo... chém rớt đậu quan hai” mà còn ở chỗ họ đã làm sáng tỏ một số chân lí của thời đại, của lịch sử. Đó là chân lí về tinh thần yêu nước và vai trò tự giác của nông dân trong thời kì cận đại,  chân lí về khả năng chiến thắng của ý chí con người đối với vũ khí tối  tân, chân lí về sức mạnh của chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích. Cho nên có thể nói là thắng lợi quân sự đồng thời là thắng lợi chính trị, chẳng những có tác dụng động viên chiến đấu ở đương thời mà còn là bài học đáng quý cho hậu thế.

Nhìn chung lại, ở phần thích thực này, hầu như Nguyễn Đình Chiểu đã không dùng đến một hình thức mĩ từ pháp nào mà chỉ những chi tiết thực, tinh ròng chất sống, cùng với ngôn ngữ giản dị giàu chất dân gian và lối kết cấu tự nhiên hợp lí dựng nên hình ảnh quen thuộc nhưng thật là đột xuất, giàu chất anh hùng ca của người nông dân Cần Giuộc. Và đó cũng là hình tượng nông dân chân thực nhất, đặc sắc nhất trong văn học cổ điển, bao nhiêu năm sau chưa có cây bút nào vượt được.

3. Ai vãn:

Phần này thường nhắm trực tiếp bộc lộ tình cảm đối với người đã khuất, ở đây là tình cảm của tác giả, của nhân dân và của gia đình đối với các nghĩa sĩ.

Điểm khởi phát sự diễn biến tình cảm trong đoạn vàn là cảnh ngộ éo le mà tác giả đã dùng để chuyển tiếp:

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ.

Tấm lòng vì nghĩa lớn lao đáng lẽ phải được phục vụ lâu dài cho đất nước, như ý nguyện chung, nhưng sinh mệnh con người lại chấm dứt một cách bất ngờ ngắn ngủi. Thực tế phũ phàng gây nên xúc động mạnh, ở đây lại càng mãnh liệt hơn vì không phải là sự xúc động của một tâm hồn bình thường trước cái chết thông thường mà là sự xúc động của con người nặng lòng yêu nước trước cái cao cả của những người anh hùng cứu nước.

Tầm cỡ đặc biệt và tính nhân dân sâu sắc của tình cảm trong đoạn văn bắt nguồn từ đó.

Tình cảm bao trùm là nuối tiếc thương các liệt sĩ.

Như trên đã nói, nuối tiếc thường nảy sinh từ cảnh ngộ éo le; cuộc đời chiến đấu của nghĩa sĩ chưa thỏa chí bình sinh mà cái chết đã phũ phàng ập tới.

Cảnh vật vốn vô tri từ “bóng trăng”, đến “dòng nước” dường như cũng cảm kích trước tấm lòng trung nghĩa.

Càng tiếc thương hơn vì đó là những con người rất mực hiền lành, lương thiện mà quyền làm ăn sinh sống là hoàn toàn chính đáng.

Tấc đất ngọn rau ân chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo nợ đời, mắc mớ chi ông cha nó.

Cho nên mất họ, nhân dân ngậm ngùi thương nhớ. Mất họ, gia đình đau khổ bơ vơ. Mất họ, nạn dân ách nước càng thêm bối rối.

Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu ở đây, quả thật đã nức nở trên từng trang giấy. Nỗi đau thương man mác bao trùm cảnh vật và thấm vào từng câu, từng chữ, trong giọt nước mắt của bà mẹ già bên ngọn đèn khuya, trong bước chân bơ vơ của người vợ yếu dưới bóng xế chiều.

Từ những âm thanh sầu thảm vang vọng lên qua đoạn văn, chúng ta không phân biệt được đâu là tiếng khóc của tác giả, của nhân dân, gia đình mà như nghe thấy một tiếng khóc chung của đất nước. Có thể nói Nguyễn Đình Chiểu đã rung động đến tận đáy lòng mình khi viết những câu văn trên do nhiều nguồn cảm thương hợp lại.

Chúng ta không khỏi liên tưởng đến Hồ Chủ tịch khi điếu đồng chí Hồ Tùng Mậu, cũng chất chứa trong lòng bao nguồn thương tiếc:

“Mất chú, đồng bào mất người lãnh đạo tận tụy, Chính phủ mất một cán bộ lão luyện. Đoàn thể mất một người anh em chí thiết. Mấy nguồn thương tiếc cộng vào trong một lòng tôi”. (Văn điếu cụ Hồ Tùng Mậu (1 -8-1951): Cụ Hồ Tùng Mậu hi sinh trên đường đi công tác vào khu IV khi đang làm nhiệm vụ Tổng thanh tra của Chính phủ.)

Ở đây, nói về nghệ thuật, quả thật không phải chỉ là vấn đề bút pháp mà điều căn bản là cảm xúc chân thành và sâu nặng của tâm hôn, đó là gốc của nghệ thuật trữ tình. Sự thành công của Nguyễn Đình Chiểu trước hết do chỗ tình cảm của tác giả đã hòa chung với tình cảm của nhân dân, của thời đại. Tác giả đã không sử dụng gì hơn là những chất liệu thường gặp trong văn chương cổ điển: một bóng trăng, một ngọn đèn khuya, một ánh trăng xế, một tiếng khóc... nhưng tất cả được kết hợp bằng một chất xúc cảm thân thiết, chân thực nên đã có sức rung động sâu sắc đối với người đọc.

Tình cảm lớn thứ hai là lòng cảm phục cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ.

Nguyễn Đình Chiểu đã đặc biệt đề cao cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ. Đó là cái chết để tỏ rõ ý chí căm thù, kế tục truyền thống bất khuất của dân tộc: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh”.  Đó là cái chết tròn nợ với nước non, được nhân dân sáu tỉnh đều khen và “muôn đời ai cũng mộ”. Hình ảnh tập trung thái độ cảm phục và ca ngợi là ở câu tứ tự:

Ôi! Một trận khói tan, ngàn năm tiết rỡ.

Bằng cách diễn tả cô đọng, hàm súc, Nguyễn Đình Chiểu đã làm hiển hiện lên khí tiết cao quý của nghĩa sĩ như một vầng dương rực rỡ. Tất nhiên đây là một thủ pháp nghệ thuật nhưng vẫn có nội dung ý nghĩa chân thực vì lịch sử đã chứng tỏ rằng những cuộc chiến dù dữ dội đến đâu cũng không thể lưu lại đầy đủ chứng tích qua không gian và thời gian mà cái còn lại ngàn năm không phai mờ là tiếng thơm của người trung nghĩa, cái đó sống mãi trong lòng mến thương, cảm phục của nhân dân qua các thế hệ.

Cùng với việc đề cao cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ, Nguyên Đình Chiểu đã không tiếc lời mạt sát cách sống nô lệ:

Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vừa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;

Sống làm chi ở lính mã tả, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

Có lẽ không đáng gọi là “sống” vì con người ở đây phải lìa bỏ tín ngưỡng của cha ông chịu điều sỉ nhục về tinh thần, phải ăn uống đê tiện chịu nỗi cơ cực về vật chất.

Khỏi phải nhắc lại cái tài chọn lọc chi tiết chân thực và tiêu biểu, chỉ riêng việc dùng hai động từ “chia” và “gặm” đủ chứng tỏ khả năng biểu hiện chính xác và cách châm biếm sâu cay của Nguyên Đình Chiểu.

Mạnh hơn nữa, tác giả còn phủ định hoàn toàn cách sống nhục nhã nói trên bằng một câu giản dị, thâm trầm:

Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ củng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.

Trong tình thế rối ren lúc đó khi những tư tưởng cầu an đớn hèn đang trỗi dậy, vào hùa với bạo lực phi nghĩa của kẻ thù làm mờ ám lương tri con người, thái độ khẳng định cái chết vinh hơn cái sống nhục có một ý nghĩa chiến đấu trực tiếp, quyết liệt. Nó rất gần gũi với ý chí kiên quyết của Hồ Chủ tịch trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vừa tròn 85 năm sau:

Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Ở đây không chỉ là lòng cảm phục và ca ngợi cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ mà bề sâu của vấn đề là qua đó Nguyễn Đình Chiểu đã xác định