Phân tích bài thơ Trao Duyên trong Truyện Kiều

Thứ hai , 01/12/2014, 14:57 GMT+7
     

1. Sau khi Thúy Kiều bán mình và lấy được tiền đút quan thì vụ kiện chấm dứt và việc nhà coi như tạm yên. Bấy giờ, giữa đêm thanh vắng - sáng mai nàng sẽ ra đi theo Mã Giám Sinh - Thúy Kiều mới nghĩ đến mối tình của mình. Đoạn thơ này bắt đầu với nỗi lo nghĩ đó.

2. 64 câu thơ của đoạn có thể xem như bao gồm mấy phần:

2.1. 2 câu đầu là khung cảnh xảy ra tâm trạng của Thúy Kiều.

2.2.  14 câu tiếp theo, “Phận dân... chưa tan”. Thúy Kiều đau xót, bàng hoàng, không biết làm sao trả được nợ tình cho Kim Trọng.

2.3.  24 câu tiếp theo “Nỗi riêng... thơm lây”: Thúy Kiều cậy Thúy Vân thay mình trả giùm nợ ấy.

2.4.  14 câu sau đó “Chiếc thoa... thác oan”: Thúy Kiều trao các vật kỉ niệm và dặn Thúy Vân sau này hãy nghĩ đến hồn oan của mình.

2.5. 8 câu sau nữa “Bây giờ... từ đây”: Thúy Kiều thấy mình vẫn không yên tâm và đau xót đến nấc lên.

2.6.  2 câu cuối “Cạn lời... lạnh đồng”: Thúy Kiều ngất đi.

Toàn bộ Truyện Kiều là một bi kịch. Đây là một bi kịch nhỏ trong bi kịch lớn ấy. Chế độ phong kiến phản động không cho kẻ lương thiện có được hạnh phúc. Trong lĩnh vực tình yêu, trai gái lại càng không được phép tự mình xây dựng lấy hạnh phúc cho mình. Thúy Kiều lại dám vượt lên trên khuôn khổ đó để đi tìm hạnh phúc. Nàng đã bị quật lại và đau thương đã xảy ra.

Trước đau thương nàng không nghĩ đến mình, nàng đau khổ trước hết vì lo cho người yêu. Và vì lo cho người yêu nên nàng mới có hành động cậy em. Nhưng cậy em xong nàng vẫn bứt rứt, cứ thấy như mình phụ bạc người yêu, nên lại càng đau xót và đau xót đến ngất đi. Xây dựng tâm trạng ấy của Thúy Kiều, Nguyễn Du muốn làm sáng tỏ thêm một mặt cao quý khác trong phẩm chất của nàng sau đức hi sinh - hi sinh cho gia đình - là đức vị tha, nghĩ đến người nhiều hơn là nghĩ đến mình, trong khi nàng là một con người có ý thức sâu sắc về đời sống và về hạnh phúc của riêng mình.

3.1.  Phần một: Trước đây, lo giải quyết việc nhà, Thúy Kiều chỉ thấy trong lòng mình mỗi một tình thương: Thương cha, thương em, thương cả nhà. Có nghĩ đến mối tình của mình thì chỉ thoáng qua: Nó mau chóng bị tình thương kia khỏa lấp. Đêm nay việc nhà đã tạm yên, ngày mai Mã Giám Sinh sẽ đến rước nàng đi. Bây giờ nàng mới nghĩ đến mình. Khóc như thiếu nữ vu quy nhật, (khóc như con gái ngày về nhà chồng)! Người xưa đùa như thế. Bởi trong điều kiện bình thường, đi lấy chồng là một chuyện vui, thế mà rời nhà ra di người ta còn sụt sùi. Đây, rồi Thúy Kiều cũng ra đi, nhưng nào phải chồng con gì bình thường như người ta. Canh khuya, một mình một bóng, áo đầm nước mắt, tóc sầu khô rối. Chắc nàng phải đau khổ nhiều.

3.2.  Nàng nghĩ gì mà buồn khổ như vậy? Nàng nghĩ đến phận mình, nhưng nàng vội gạt ngay với một thái độ cam chịu gần như lạnh lùng: Số ta đã không ra gì, thì như thế này hay khác đi cũng vậy thôi, chả nói làm gì: Phận dầu dầu vậy cũng dầu. Té ra nước mắt kia, tóc sầu kia không phải vì nàng chẳng được một tấm chồng bình thường, vì sáng mai nàng đã phải lên đường rời bỏ nóc nhà cha mẹ. Nàng đau khổ vì một cớ khác Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời. Ra thế, nàng đau khổ vì một lời hẹn với chàng Kim. Và lời hẹn ấy đang giày vò nàng:

Nỗi riêng riêng những bàn hoàn.

Bứt rứt, dằn vặt, tính tới tính lui, bàn hoàn mỗi một việc: làm sao giữ được lời hứa trăm năm? Làm sao trả được món nợ tình?

Mối tình ấy nàng coi nó như thế nào mà nàng lo nghĩ dữ vậy? Trước kia nàng đã chẳng nghĩ đến nó sao? Sao nàng lại gạt nó đi rất lanh lẹ? Trong tình thế cửa nhà nguy ngập lúc đó, trong lòng nàng chỉ có mỗi một tình cảm: Thương xót cha, em, và mỗi một nỗi lo: cứu vớt cha, em. Đêm nay tình thế đổi khác: Trong lòng nàng lại có mỗi một nỗi niềm: đau xót cho người yêu, làm sao cho người yêu đỡ khổ. Nàng không nghĩ đến mình nữa.

Nàng quan niệm mối tình giữa nàng và người yêu là một “công trình” hai bên đã xây đắp “bấy lâu” với biết bao công sức. Nó đã kết chặt hai bên thành một đôi khăng khít và đã đưa đến một lời thề thiêng liêng, thiêng liêng trước đất trời và trong lòng mình. Đã thề bồi là như đã mang nợ. Nợ ấy không trả không được. Kiếp này chưa trả, thì kiếp sau sẽ tái sinh làm thân trâu ngựa để trả. Kiếp này chưa trả được thì chết xuống suối vàng khối tình trong tim vẫn chưa tan.

Cứ thế, nghĩ tới nghĩ lui, lật qua lật lại, mà không có lối ra. Trong 14 câu thơ, lặp 4 lần chữ thề, 3 lần chữ chưa, 3 lần chữ thôi, 2 lần chữ nợ; ý phụ bạc: Lỗi thề, phụ phàng, rẽ cửa, chia nhà, 2 lần: ý trả nợ: đền nghì, trả nợ, 2 lần: ý tại mình: Vì ta, tự tôi, lặp 4 lần.

Có lạ không? Nói cho đúng lẽ, sở dĩ mối tình nẩy ra là do cả hai bên. Không có cái nhìn làm cho nàng phải “e lệ nép vào dưới hoa” trong chiều thanh minh, không có cái việc “cách tường lên tiếng” trả thoa cho nàng phải đáp lại, thì tơ duyên nào buộc được hai tấm lòng? Và trong chuyện đó phải nói chủ động là ở chàng Kim. Vì cả đôi đường, “vì anh vì ả, vì cả đôi bên”, chưa kể là vì anh trước. Thế mà trong đoạn này nàng buộc cả cho mình, vì mình: Vỉ ta khăng khít. Rồi việc nàng không giữ được lời thề với Kim Trọng, tội ác ấy thuộc lũ quan lại tham nhũng, thuộc cái xã hội nhơ nhuốc, vu oan, giá họa, đục khoét kia, thế nhưng nàng cũng đổ riệt cả cho mình: vì mình gắn bó với người nên người mới giữa đường đứt gánh: Vỉ ta khăng khít cho người dở dang. Và đi sâu vào chuyện trăm năm, con gái về nhà chồng là cửa nhà chồng như được yên vui, nay không được như thế thì y như nàng đã làm cho cửa nhà Kim Trọng tan tành: Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi. Nghe có vô lí không?

Cái vô lí ấy lại là cái có lí của logic tình cảm. Người ta đã chẳng nói “trái tim có những lí lẽ mà lí trí không biết đến” đó sao? Logic tình cảm ấy đã dựa vào một phẩm chất cao quý của nàng: nghĩ đến người chứ không nghĩ đến mình, nghĩ đến người nhiều hơn nghĩ đến mình; đó là tấm lòng vị tha, đạo đức hi sinh. Quên mình mà nhờ người, cho nên mới buộc tất cả cho mình, mới có cái logic thiên lệch mà cảm động biết bao kia. Vì ta khăng khít, làm như chỉ có mình mình khăng khít; cho người dỗ dang, làm như chỉ có người là dở dang, còn mình thì không dở dang; rẽ cửa chia nhà tự tôi, làm nhưđã thành gia thất với người, cửa nhà đường hoàng, êm ấm, nay rẽ cửa chia nhà là tự mình gây ra. Và như thế là không giữ được lời thề, món nợ tình lại càng sâu. Không giữ nhưng làm sao quên được? Dù kiếp sau cũng còn đó. Vừng trăng còn đó thì mùi hương của nén nhang đêm thề có dứt đi đâu. Dù có làm kiếp ngựa trâu để đền đáp thì cũng chỉ một phần. Nợ tình chưa trả, khối tình cứ hãy kết lại thành cục, chết rồi cũng chẳng tan.

3.3 Nỗi riêng riêng những bàn hoàn trong lòng Thúy Kiều đêm nay là vậy. Nàng chỉ có thức với ngọn đèn cho đến khi dầu khô trong đĩa mà dòng lệ vẫn không dứt đầm khăn: Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn, bởi nàng 

chỉ có xót đau rồi đau xót chứ chưa tìm được phương kế nào. Bàn hoàn mang ý quanh quẩn, quẩn quanh, lại thêm những (bàn hoàn) nên càng thêm rối rắm. Âm điệu câu thơ lại xoáy sâu vào trong lòng cô độc, vào chỗ sâu kín nhất, chỉ mình biết mình hay (nỗi riêng, riêng những), càng tăng cái giày vò của tâm trạng, đang hoàn toàn bế tắc.

Trong tình hình đó, Thúy Vân thức dậy.

Cái con em này, sao mà mày phúc hậu đến vô tư như thế hở. em? Mày đánh một giấc ngon lành từ đầu hôm đến giờ y như chẳng có chuyện gì xảy ra trong nhà. May mà mày còn chợt tỉnh và còn biết nghĩ đến chị:

Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân

Dưới đèn ghé đến ăn cần hỏi han

Và mày cũng biết nhân tình, cũng biết thương tưởng đến chị:

Cơ trời dâu bể đa đoan

 Một nhà để chị riêng oan một mình

 Mày lại còn thông minh, đoán hiểu được lòng riêng của chị nữa kia: 

Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh?

Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây

 Đúng như thế em ạ. Lòng chị đang như tơ rối đây. Chưa biết gỡ làm sao cho xong. Cũng chỉ vì một mối tình. Nói ra cũng thẹn, mà không nói thì lại phụ tấm lòng ai:

Rằng lòng đương thổn thức dầy,

Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.

Hở môi ra cũng thẹn thùng, s

Để lòng thì phụ tấm lòng với ai!

Đến dày Thúy Kiều đột ngột yêu cầu Thúy Vân ngồi lên cho mình lạy rồi hãy nói câu chuyện muốn cậy em:

Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Lời gì vậy? Đó là thay chị nối tình với chàng Kim. Cử chỉ thật bất ngờ, bất ngờ cả dối với Thúy Kiều. Trước đó nàng cũng chưa hề nghĩ đến. Cà một đêm thức trắng, đâu nàng có nghĩ ra điều này, nàng chỉ có đau khổ, giày vò. Nhưng tù lúc Thúy Vân thức giấc và tỏ ra thương chị, nàng như vụt thấy một làn chớp sáng: đây rồi, con em này nó nặng lòng với chị thật đây, bụng dạ nó thật thà, êm ả như giấc ngủ của nó, có thể tin vào nó được, nó có thể giúp mình trả món nợ tình đây. Vả chăng, việc em thay chi, em với chị cùng nâng khăn sửa túi cho một đấng quân tử, xã hội xưa coi là bình thường. Có thể nhờ nó đây.

Cử chỉ ấy cũng bất ngờ đối với Thúy Vân. Dù tâm hồn cố đơn giản đến đâu đi nữa, với một việc như vậy cũng quá ư đột ngột, bởi nó quan trọng quá, nó ảnh hưởng đến cả một đời người. Làm sao nó lại có thể đặt ra và giải quyết trong giây lát, không được một giây nào suy nghĩ, đắn do. Dù ngày xưa con gái cũng chẳng bao giờ được hỏi ý kiến về việc hôn nhân, cũng vẫn là quá bất ngờ. Nhận lời lấy một người đâu phải như lấy một món quà. Vậy trên cơ sở nào mà Thúy Kiều dám đề ra ý kiến ấy và hầu như ép ngay Thúy Vân phải nghe lời mình? Chỉ có cơ sở duy nhất đúng đắn là tình thương: Chị thương em, tin ở em, tin em sẽ nghe lời mình nên mới dặt ra, chị cũng biết em thương chị, không nở trái ý chị. Còn em, em chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, nhưng lại thật tình thương chị, thương chị riêng gánh chịu nỗi oan khổ của cả gia đình, lại còn đang đau xót, dằn vặt vì một mối tơ duyên đứt đoạn. Em chưa kịp nghe hết lời chị, nhưng em cũng đã hiểu lòng chị. Em cũng chưa kịp suy nghĩ đắn đo phải trái gì, nhưng em vẫn ở trong tâm thế đễ nghe lời chị, thuận lợi cho chị khẩn cầu em, đúng hơn, bắt ép em. Đến đây mới hiểu vì sao Nguyễn Du xây dựng tính cách Thúy Vân khác hẳn Thúy Kiều ngay từ đầu và chính những biểu hiện trên kia lại là những biểu hiện của một tâm hồn Thúy Kiều có thể tin tưởng được hoàn toàn. Vũ Trinh, một người bình luận Kiều đầu thế kỉ XIX, nói: “Thúy Vân xuất hiện ba lần, đều giống như một khối đá trơ... chỉ để nàng theo dường giàu sang làm bà quan là hợp”. Ấy là có ý chê. Nào hay cái khối đá trơ ấy lại vững bền trong cốt cách, ít ít tình cảm, nhiều nhiều lí trí, bình tĩnh, vững vàng. Và ở đây là một sự bổ sung cần thiết, một bàn tay nâng đỡ cho chị, một chỗ dựa cho trái tim chị đang ngả nghiêng.

Rồi tại sao lại bắt người ta “chịu lời” trước rồi sau mới “thưa”, mới nói rõ lời ấy là lời gì? Thử nghĩ xem. Làm sao lại có thể nói trước như trình bày, bàn bạc trước được? Với một sự việc như thế này, như trên đã nói, chỉ có giải quyết được bằng tình, lấy tình máu mủ mà ép, chứ không thể nào lấy lí mà thuyết phục được. Đem ra nói trước, tất phải dùng lí lẽ, tất thành chuyện lí. Thành chuyện lí là hoàn toàn không thích hợp. Với lại cũng không thề để thì giờ cho Thúy Vân suy nghĩ. Phải ép cho được ngay đrong lúc Thúy Vân còn đang như hoang mang chưa thật hiểu chuyện gì, Chứ để Thúy Vân nghĩ suy dài dài thì lại sinh rắc rối. Người viết truyện thật đã hiểu đời, hiểu trái tim mới cân nhắc được tinh tế như vậy.

Thật sự có lí lẽ gì đáng gọi là lí lẽ đâu.

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Một chút băn khoăn cho người đọc: Tại sao lại “tơ thừa mặc em”? Chẳng lẽ đang cần nhờ em chắp nối cho mình mối tơ mà lại nói đó là tơ thừa? tơ người ta dùng rồi còn thừa lại? Và mặc em? Mặc kệ em, người ta không biết đến? Nguyễn Du không sơ suất như vậy bao giờ. Cho nên phải hiểu câu này trong tinh thần trân trọng, đề cao con người mình nương cậy và mình vừa sụp lạy: Vậy, tơ thừa chỉ có nghĩa là tơ còn lại đó và mặc em là hoàn toàn trông cậy vào em, tùy em định liệu. Mối tình giữa chị và Kim đứt đoạn nửa chừng, việc kết lại mối tơ ấy giùm chị, chị nhờ em giúp cho thứ keo loan và tùy em quyết định. Như vậy, câu ấy chưa hẳn là lời yêu câu chính thức, mà mới là lời yêu cầu giúp đỡ và còn đang trừu tượng.

Tiếp theo đó là kể vắn tắt quá trình hai người yêu nhau, ước hẹn thề nguyền. Rồi cách suy nghĩ và hành động hi sinh của Thúy Kiều trước cơn gia biến, do đó mà chữ tình, không vẹn. Sau đó mới đúng là lời yêu cầu chính thức, cộng với lời yêu cầu ở trên là rõ ràng, cụ thể:

Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non

Nói lí lẽ thì 2 câu trên và 2 câu này cũng gọi là có chút lí lẽ: Em xem, nào chị có muốn phụ thề, nhưng làm sao cho vẹn cả hiếu tình, ấy cũng vì thương cha mẹ, thương các em mà chị mới nên nông nỗi này. Đời chị coi như hết. Còn em, đời em còn dài, xin em vì tình máu mủ mà thay chị nói giùm cho lời nước non. Lí lẽ ấy đâu phải nói cho lí trí, mà cũng là nói cho trái tim. Cái logic của tình cảm cũng chỉ có thể đến thế. Hầu như tất cả các điều nói trên đều đọng lại ở câu thơ kì lạ này:

Cậy em, em có chịu lời.

Người ta hỏi: Tại sao Nguyên Du không dùng nhờ mà dùng cậy? không dùng nhận mà dùng chịu? Chính vì giữa các từ ấy có một sự sai khác khá tinh vi. Đặt nhờ vào chỗ cậy, không những thanh điệu câu thơ sẽ nhẹ đi, âm thanh không đọng ở chữ thứ nhất của câu thơ nữa, làm giảm đi chừng nào cái quằn quại khó nói của Kiều, mà ý nghĩa hi vọng tha thiết của một lời dối dăng, ý nghĩa nương tựa gửi gắm của một tấm lòng tuyệt vọng, đồng thời cũng là ý nghĩa tin tưởng thân mật ở một mối tình ruột thịt, nhưng ý nghĩa đó sẽ gần như mất đi. Còn giữa chịu và nhận thì dường như có vấn đề tự nguyện hay không tự nguyện nữa. Nhận lời có lẽ là có nội dung tự nguyện ở trong, hay ít ra cũng là có ý kiến của người nhận lời. Chịu lời thì hình như chỉ có một sự nài nép phải nhận vì không nhận không được. Trong tình thế của Vân bấy giờ chỉ có chịu lời chứ lam sao có thể nhận lời được.

Câu thơ sáu chữ giản dị mà chứa đựng trong vài từ cân nhắc kĩ tất cả chiều sâu của một tình thế phức tạp, càng làm cho nó có dáng dấp như một lời cầu nguyện linh thiêng: ý nghĩa đã có sẵn trong lời thơ nhưng người nghe vẫn chưa sao hiểu được.

Cuối cùng tại sao lại lạy?

Việc nhờ cậy quả là quan trọng, cho người nhờ cũng như cho người được nhờ. Cho người nhờ, đó là một cách trả món nợ tình, chu tất cho một lời thề thiêng liêng, cởi bỏ cho mình một nỗi giày vò có cơ theo đuổi mình đến tận kiếp sau, bởi vì mình đã cắt một mảnh máu mủ của ruột rà là em mình thay mình để lo cho người. Cho người được nhờ thì càng quá rõ. Không yêu, không biết, bỗng dưng bảo phải kết duyên với người ta, đột ngột, bất thần, trước cảnh chị thức suốt đêm, nước mắt đầm đìa, đã đau khổ phải hi sinh thân mình, sáng mai lại sẽ khổ nữa mà nay còn quằn quại như kia, lòng em nào nỡ nghĩ khác, như thế làm gì mà không coi đó là một sự hi sinh, vì chị, vì cái cao quý của chị mà hi sinh.

Đối với một cử chỉ hi sinh vì người khác như vậy, chỉ có kính phục và biết, ơn, ngày xưa phải tỏ bày bằng cái lạy. Thúy Kiều đòi lạy Thúy Vân là lạy cái hi sinh cao cả ấy.

Đánh giá sự đòi hỏi của mình đối với em cao như vậy, coi nó như một cử chỉ vị tha giúp cho mình trọn vẹn được tấm lòng vị tha của mình, Thúy Kiều thấy như mình thanh thản, yên tâm, sung sướng, dù có thịt nát xương mòn cũng ngậm cười nơi chín suối và thơm lây cái đạo đức thơm tho của em.

Chị dù thịt nát xương mòn,

.Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

3.4. Cơn khủng hoảng trong tâm tư đến đó coi như tạm giải tỏa. Bây giờ thì Thúy Kiều trao lại cho em những vật kỉ niệm. Chiếc thoa này là khởi đầu cuộc tình duyên, em giữ; tờ hoa tiên này có lời nguyền và nét bút chữ kí của hai bên, giờ coi như của chung; của chàng, của chị, nay còn là của em. Thiêng liêng hơn, vì không những nó chứng giám như vừng tráng, như đất trời câu thệ ước đêm nào, mà nó còn ghi trong mùi thơm của nén hương, trong âm thanh của tiếng tơ tấm lòng thành thiêng liêng nhất của hai con người, là phím đàn và mảnh hương nguyền, của tin để lại cho nhau, bây giờ cũng bảo cho em biết: hồn chị gởi cả trong ấy.

Cho đến dây là nhắc lại với em mấy kỉ niệm gắn liền với mấy kỉ vật. Đó là chuyện quá khứ. Cái đau thương đối với nó dù sao cũng có hình dáng, cụ thể rồi. Biết mấy mươi công trình đã vò xé trái tim ra sao cả đêm, trên kia đã trải qua rồi. Có thể nói với em một cách bình tĩnh được.

Nhưng, khi động đến tương lai, cái tương lai chưa đến nhưng đã biết nó mù mịt rồi, nàng đâu còn giữ được sự yên lòng mới vừa nhờ em mà đạt được. Như con người lội nước mà hụt chân rơi vào vực sâu, chới với, không biết bám vào đấu, nàng tưởng tượng đến cái tương lai Vân và chàng Kim nên vợ nên chồng, đến cõi vĩnh viễn mà nàng chỉ là một mảnh hồn oan, vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây, nhưng vẫn còn vướng chặt với tiếng tơ trên phím đàn và mùi hương của mảnh trầm, và vẫn còn mang nặng lời thề và nguyện nát thân bồ liễu để đền trả món nợ tình. Nghĩa là bằng viễn tưởng ấy nàng đinh ninh mình sẽ là một kiếp hồn oan trong vĩnh viễn, và nàng dặn em rẩy một chén nước làm phép tẩy oan cho nàng.

Thế là thế nào? Trên kia nàng đã chẳng nói là được Vân giúp cho như thế này là dù có thịt nát xương mòn nàng cũng ngậm cười nơi chín suối đó sao? Nghĩa là nàng đã trả được món nợ tình, nàng đã hết giày vò vì đã lo cho chàng chu tất đó sao? Thế mà chỉ giở lại một vài kỉ vật, để trí tưởng tượng tung bay không cần kìm lại, là nàng đã trở lại với bao nỗi xót xa thời khắc trước: cũng mang nặng lời thề cũng xả thân để đền nghĩa trúc mai, bứt rứt, dằn vặt mình, mà lần này lại đáng sợ hơn vì xót đau vĩnh viễn. Phút yên lòng ở trên đã bay đâu mất.

Ái ngại biết bao! Đáng sợ biết bao! Nàng còn sờ sờ trước mặt Vân mà nàng tưởng tượng như mình đã chết. Chết là chết cái thân xác chứ trái tim nàng, mối tình nàng đối với chàng Kim, linh hồn nàng đâu có chết. Cho nên, khi nghĩ đến sau này, có lúc nào đó Vân và chàng đốt lò hương, so tơ phím, hưởng hạnh phúc với nhau, thì khát khao không nguôi hạnh phúc sum họp của yêu đương, nàng lại hiện về. Bởi rốt cục, hồn nàng vẫn mang nặng lời thề, và nàng sẽ mãi mãi là một hồn oan ở chốn dạ đài nghìn thuở tối tăm.

Như vậy nàng có tiền hậu bất nhất không? Có mâu thuẫn với mình không? Có đòi hỏi quá đáng không? Khổ đau vì không cách gì trả được nợ tình thì đã nhờ được người trả hộ, còn gì nữa mà cứ bứt rứt, dằn vặt? Một hồn oan, hai thác oan?

Đúng, có mâu thuẫn. Nhưng không phải trước sau, hoàn toàn là một vấn đề. Trước nàng đau khổ vì người, nay vì người đã xong, nàng xót xa vì mình, vì bản thân mình. Lo cho người xong, bấy giờ nàng mới nghĩ đến mình. Bây giờ nàng mới kịp nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất đi. Nàng không phải chỉ chới với trong viễn tưởng tương lai mù mịt, oan nghiệt. Nàng như không còn ở trạng thái tỉnh táo bình thường như từ trước đến đó. Nàng như có vẻ nửa mê nửa tỉnh, nửa phần là người sống nhưng nửa phần chừng như đã là hồn ma, và tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng phảng phất như lời nói từ cõi bên kia vọng về.

Đoạn thơ cũng chợt đổi giọng. Hình ảnh, âm điệu, như chập chờn bay hết nét thật, có gì thần linh, ma mị: thời điểm không xác định (mai sau, có bao giờ), không khí linh thiêng  (đốt lò hương, so tơ phím của người xưa để lại), phất phơ, ma mị (ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió).

Tất cả để làm gì?. Để nói rằng: Thúy Kiều tiếp tục khổ đau, và càng khổ đau gấp bội đến không còn bình tĩnh nữa.

Nghĩ mà coi. Thương cho người dở dang, lo cho người khỏi dở dang, điều gì khó nhưng làm được. Nhưng trao một mối tình thì trao làm sao? Trái tim còn đập, tình yêu còn in dấu rành rành, xóa làm sao? Mà tại sao phải xóa? Nàng đã tưởng cùng với việc trả được món nợ tình thì cũng xóa được mối tình trong tâm hồn mình. Nhưng nào cố được. Mà như vậy là hợp lí, hợp quy luật tình cảm, hợp với tính cách nàng, cho nên nàng càng đau khổ là phải.

3.5. - Theo đà chập chờn có vẻ nửa tỉnh nửa mê ở trên, đến đây, đang nói chuyện với Vân, nàng rời bỏ Vân để nói một mình, nói với mình, nói về sự dang dở của mình.

Trên kia nàng kể quá khứ của mối tình, rồi nói đến viễn tưởng tương lai, tương lai sum họp của Vân và chàng Kim, tương lai oan khổ bạc mệnh của mình, tức tương lai chung của mối tình ấy. Nàng chưa nói đến hiện tại. Nay nàng mới nói đến. Và nàng bắt đầu bằng: Bây giờ. Quá khứ đã qua. Tương lai chưa tới, nhưng đã sắp đặt và ước đoán trước. Chỉ còn hiện tại, bây giờ mình mới thật sự đối diện với mình, với tất cả cái đau thương của mình.

Còn ai nỡ trách? Ai đó nghĩ rằng mở cửa đi ra với xã hội, với nhân dân, với Tổ quốc, nỗi đau riêng của mình chỉ còn nhỏ xíu xiu: nhưng trở về phòng mình đóng cửa lại, nỗi đau kia to bằng quả núi. Đây còn hơn thế. Vì người thì hoàn toàn không chút bóng dáng của đau thương cá nhân. Chỉ khi mọi sự đối với người đều xong xuôi, bây giờ mới nhìn lại tấm lòng mình, tình cảnh mình. Nỗi đau của nàng sâu nặng biết bao!

Nhờ Vân chắp nối thì đó là cho chàng Kim - chứ cho mình thì làm sao, ai mà chắp nối? Đành là cảnh trâm gãy gương tan, tim mình như tan ra từng mảnh, khi nghĩ đến mối tình trăm dấu nghìn yêu. Đành là tơ duyên ngắn ngủi. Đành là phận bạc như vôi. Đành là lỡ làng như hoa trôi nước chảy. Đành chịu tội với chàng, đành gởi chàng muôn nghìn cái lạy, quằn quại đến mức phải nấc lên:

Ôi Kim lang! hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

Nhưng nấc lên lại là khẳng định một lần nữa và mãi mãi: mình đã phụ bạc ngươi yêu, mình có tội, nghĩa là nàng phủ nhận tất cả những gì nói với Vân, những gì nàng lo cho chàng Kim, phủ nhận nỗi yên tâm khoảnh khắc trên kia. Nghĩa là nàng đau thêm cho mình mà lại vẫn cứ một mực đau cho người, vì người, chứ không giảm. Hai nỗi đau ấy chồng lại, sau một đêm thức trắng, còn sức đâu chịu đựng mà nàng không thét lên, trực tiếp gọi đến tên chàng Kim, như trong mê sảng. Nỗi đau đã đến tột đỉnh.

3.6. - Tất yếu sau tiếng nấc xé lòng ấy nàng ngất di:

Cạn lời hồn ngất máu say,

Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.

4. Quy luật của tình cảm ở một con người như Thúy Kiều là phải đưa đến đó. Trong dư luận xưa nay người đọc Truyện Kiểu đều gọi đây là đoạn “trao duyên”. Các sách nhà trường lại đặt nhan đề là “Thúy Kiều dặn em thay lời”, “Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân”. Thảy đều mới nói một mặt của vấn đề. Duyên thì phải trao, nhung trao làm sao được? Dặn dò được em còn mình thì ai dặn dò, và dặn dò thế nào được?

Đoạn thơ là một cơn khủng hoảng, một cơn sóng gió trong lòng con người tội nghiệp: bắt đầu là lo âu, bứt rứt, bàng hoàng nhưng bế tắc; may nhờ có Vân, cậy được Vân và tạm yên lòng, cũng có thể nói có một khắc vui; nhưng sau đó, ôn lại mối tình, nghĩ đến mai sau, nghĩ đến tình cảnh trước mắt, lỡ làng, tan nát, thì chập chờn đi vào cơn mê, quằn quại, thảng thốt rồi ngất lịm đi.

Đâu phải nàng đau khổ, quằn quại, chỉ vì bản thân nàng. Nàng chỉ nghĩ đến mình thoáng qua, sau khi đã lo cho người, lo cho chàng Kim, lo cả cho Vân. Ngay khi nghĩ đến mình, cuối cùng cũng là nghĩ người bị phụ bạc và chính mình là người phụ bạc, có tội với người. Còn tất cả trái tim yêu thương nàng đều dành cho người yêu, lo cho người yêu được đền đáp, lo xong, lo tốt rồi mà vẫn bứt rứt không yên. Tấm lòng vị tha ấy cao đẹp mà ngọt ngào làm sao! Nó không ồn ào, cao đạo. Cũng như sự hi sinh của nàng cho gia đình trước đây, lòng vị tha này cũng cùng một xuất phát. Đậm đà, chân thật, sâu xa nhất của tâm hồn nàng: tình thương. Bởi thương người đằm thắm, sâu xa, muốn cho người được hạnh phúc, còn mình thì có khi cũng đành phải cam chịu hi sinh, nên tấm lòng vì người ấy thật có sức xúc cảm sâu xa. Đó là một phẩm chất vô cùng cao quý.

Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề đen tối. Từ cái bi thương lại toát ra từ bên trong ánh sáng của phẩm chất đó. Đồng thời cũng chính cái bi thương ấy lại là một lời tố cáo mãnh liệt tội ác của cái xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người. Niềm xúc động sâu xa của người đọc thơ không chỉ là sự xót xa căm giận mà còn là niềm cảm phục, yêu thương khôn xiết.